Đang online | 47 |
Hôm qua | 986 |
Tổng cộng | 62418 |
Mặc dù là nước xuất khẩu cao su tự nhiên lớn thứ 3 thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn phải nhập khẩu cao su nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu sản xuất – chế biến.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), phần lớn cao su nguyên liệu được nhập khẩu để tái xuất và chỉ phần nào đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất lốp xe nội địa. Phần lớn cao su nguyên liệu nhập khẩu là TSR 10 và TSR 20, vốn có nhu cầu rất lớn từ các công ty sản xuất lốp xe nhưng chỉ có sản lượng nhỏ sản xuất nội địa, chủ yếu do giá thấp.
Theo ông Nguyễn Đình Đông, phó tổng giám đốc CTCP Cao su miền Nam (Casumina), 75% đầu vào của Casumina là cao su nguyên liệu nội địa, phần còn lại phải nhập khẩu từ Malaysia hoặc Thái Lan để sản xuất các loại lốp cao cấp. Theo ông Đông, có một sự khác biệt lớn về chất lượng giữa SVR 10 và SVR 20 sản xuất tại Việt Nam và sản phẩm cùng loại sản xuất tại các nước Đông Nam Á khác. “Đây là lý do chúng tôi phải nhập khẩu TSR10 và TSR20 để sản xuất lốp xe tốt hơn”.
Mặt khác, phần lớn các nhà sản xuất cao su nguyên liệu tại Việt Nam có công suất thấp và không đáp ứng được yêu cầu về đồng nhất chất lượng. CTCP Cao su Đà Nẵng (DRC) cũng cần khoảng 18.000 tấn cao su tự nhiên hàng năm, chủ yếu là SVR10 và SVR20 nhưng thường không thể tìm đủ nguồn cung nội địa.
Theo ông Thái Hồng Khang, giám đốc Trung tâm công nghệ cao su tại Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam, nguyên nhân của tình trạng thiếu cao su nguyên liệu là do cách các nhà sản xuất cao su nguyên liệu nội địa sản xuất kinh doanh. “Khi giá cao su thế giới tăng mạnh, các nhà cung cấp cao su nguyên liệu thường tập trung hoàn toàn vào xuất khẩu nhưng khi giá giảm mạnh, họ mới quay trở lại thị trường nội địa”. Điều này gây bất lợi cho các nhà sản xuất lốp xe nội địa và đẩy các nhà sản xuất này đến nguồn cao su nhập khẩu mà họ có thể nhập hàng nhanh chóng, ông Khang nhận định.
Cấu trúc sản phẩm
Theo bà Trần Thị Thúy Hoa, người đứng đầu ban tư vấn phát triển cao su của VRA, cao su SVR10 và SVR20 chỉ chiếm khoảng 15 – 17% sản xuất nội địa, trong khi nhu cầu thực lên đến 65 – 70%. Các nhà sản xuất cao su nguyên liệu nội địa chỉ tập trung vào sản xuất các loại cao su chất lượng cao cấp, như SVR3L, SVR-CV 50, SVR-CV 60, mà ít chú ý tới các dây chuyền sản xuất SVR10 và SVR20.
Theo thống kê của VRA từ năm 2016 đến nay, giá cao su SVR10 thấp hơn giá cao su SVR3L từ 40 – 220 USD/tấn. Do đó, đầu tư vào dây chuyền sản xuất SVR3L mang lại lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, nhu cầu thị trường đang chuyển dịch theo hướng sử dụng cao su SVR10 và SVR20. Trong ngành sản xuất lốp xe, SVR3L chủ yếu được dùng để sản xuất xăm, nhưng hiện thị trường đang ưa chuộng lốp đặc không xăm, nên kinh doanh SVR3L đang gặp khó khăn.
Dự báo nhu cầu cao su tự nhiên toàn cầu năm 2017 ở mức 15 triệu tấn, trong đó nhu cầu cao su SVR3L chỉ ở mức 150.000 tấn. Nếu các doanh nghiệp không giảm nguồn cung SVR3L và tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, họ sẽ gặp rủi ro dư cung lên tới 300.000 tấn.
Nhận thấy khuynh hướng này, một số doanh nghiệp đã bắt đầu vào các dây chuyền sản xuất cao su SVR10 và SVR20 mới, thay vì SVR3L. Theo ông Trần Thanh Phùng, phó tổng giám đống Công ty cao su Phú Riềng, công ty đã đầu tư vào một dây chuyền sản xuất cao su SVR10 và hiện đang cung cấp cao su nguyên liệu cho các công ty lốp xe lớn như Goodyear và Kumho. Tuy nhiên, sản lượng cao su SVR10 cũng chỉ chiếm 20 – 25% tổng sản lượng đầu ra của công ty. Bổ sung thêm các dây chuyền để tăng sản xuất cao su SVR10 và SVR20 để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ là giúp công ty đảm bảo lợi nhuận trong tương lai, ông Phùng nhận định.
Các chuyên gia cho rằng đầu tư vào các dây chuyền sản xuất mới cao su SVR10 và SVR20 yêu cầu các doanh nghiệp phát triển các chiến lược kinh doanh mới để tiếp cận thị trường.
Theo VietnamNet